Giáo Hội thời tử đạo

 

triumph_of_faith_christian_martyrs_in_the_time_of_nero.jpg

 

Chương 2: GIÁO HỘI GIỮA THỀ GIỚI BỊ HIỂU LẦM
(NĂM 64 – 313)

 

I. NHỮNG HIỂU LẦM VÀ THANH MINH

1,1. Người ngoài nhận định về Giáo Hội

Vì Giáo Hội là một hệ phái từ phương đông, vì Kitô hữu không hoàn toàn hòa mình với tập tục đế quốc, vì các nghi thức phụng vụ khó hiểu… Giáo Hội đã bị nhận định sai với bản chất của mình :

* Giới bình dân thì nói các Kitô hữu : vô thần đã chọc giận các thần linh gây nên các thiên tai. Họ vu khống các tín hữu tụ họp phụng vụ để loạn luân, uống máu trẻ em, ăn thịt người và thờ đầu lừa.

* Giới trí thức thì coi Kitô hữu như những kẻ khốn khổ, dốt nát, mê tín theo đạo lý sai lầm. Celsus (năm 170) và Porphyre (+305) cố chứng tỏ các sai lầm đó : Thiên Chúa không thể là hài nhi, Giêsu tầm thường không đáng bậc thánh hiền, việc phục sinh là chuyện dối gạt, bốn Phúc âm nói ngược với nhau, và bí tích chỉ cổ võ phạm thêm tội.

* Giới cầm quyền coi Kitô hữu là công dân xấu, vì không tôn thờ hoàng đế, không vâng lời vua quan, và cuối thế kỷ III, họ không tham gia quân đội.

 

1,2. Các nhà hộ giáo

Một số giới trí thức trong đạo, qua thư từ, sách vở biện hộ cho Kitô giáo (hộ giáo) gởi cho chính quyền hoặc quần chúng. Nổi bật nhất có Thánh Justinô, Origene và Tertuliano. Nội dung chính của các tài liệu đó gổm :

* Trình bày sinh hoạt và phụng vụ để chứng tỏ các tín hữu gặp nhau “không làm gì mờ ám”.

* Giới thiệu đời sống bác ái của Giáo Hội và tố cáo sự băng hoại luân lý của đế quốc : việc giết trẻ em sơ sinh, những cuộc phiêu lưu tình ái …

* Chứng minh giáo lý hợp lý và tính cách lâu đời của đạo đã có từ thời Maisen so với các triết gia Hilạp.

* Những biểu lộ công dân của tín hữu : cầu nguyện, vâng phục và nạp thuế ; giải thích lý do không hợp tác trong một số nghề buộc phải tế thần hoặc làm đổ máu người khác như chánh án, quân đội…

 

II. NHỮNG CUỘC BÁCH HẠI

Lịch sử Giáo Hội thời tử đạo kéo dài hai thế kỷ rưỡi, nhưng thực ra thời bình an cũng xấp xỉ với thời hoạn nạn. Nói chung, ta có thể chia làm hai giai đoạn :

 

2,1. Trước 192 : Bách hại theo khu vực

Chúng ta chỉ nghiên cứu những cuộc bách hại chính :

a/. Hoàng đế Nêron tại Roma (64-67)

Sau cuộc hỏa hoạn từ 18 đến 24-7-64 tại Roma, Nêron đổ lỗi cho các Kitô hữu. Từng đoàn tín hữu bị đẩy ra hí trường để xoa dịu dư luận và làm trò tiêu khiển. Nêron bắt họ đấu gươm, đấu với thú dữ hoặc đóng đinh, tẩm dầu, đốt đuốc. Nhưng các tín hữu bỏ vũ khí ôm nhau chúc bình an; không chống trả với thú lẫn người. Họ bình thản đợi chờ ngày cứu thoát đang đến.

b/. Thời Domitiano (92-96)

Sau khi bị đảo chánh hụt, Domitiano nghi kỵ, thanh lọc lại triều đình, triệt hạ những người Do Thái thờ độc thần và thờ “Ông Vua Do Thái” Giêsu.

c/. Chiếu chỉ Trajan năm 112

Vốn là Hoàng đế tốt bụng và thông minh, Trajan qua thư trả lời cho quan Pline-Trẻ, đề ra chính sách ảnh hưởng suốt thế kỷ II gổm ba điểm : “Không nên tầm nã kitô hữu. Nhưng nếu bị tố cáo và nhận là kitô hữu thì phải trừng phạt. Nếu ai chối và minh chứng bằng việc thờ cúng thần minh thì được tha”.

Những vị tử đạo lớn trong thế kỷ này có : Thánh Ignatio (+110), Polycarpo (+155), Justinô (+165), Photin ở Lyon (+177), Cêcilia (+179) … Việc bách hại thế nào tùy thuộc các quan tổng trấn địa phương thiện cảm hay không đối với đạo.

 

2,2. Việc bách hại thế kỷ III

Từ 192, thời Pax Romana chấm dứt. Các Hoàng Đế hầu hết xuất thân từ quân đội và kết thúc sự nghiệp do đảo chánh hoặc bị ám sát. Nhiều vùng đất như Gallia, Ả-Rập, Ba-Tư đòi tự trị. Kinh tế bị suy sụp do nội chiến hay thiên tai, đưa đến việc lạm phát và lạm thuế. Luân lý, văn hóa cũng bị xuống cấp theo. Ngược lại, Giáo Hội sau bao trở ngại thấy rõ hơn khả năng của mình. Sự phát triển về giáo thuyết và nhân sự đã hỗ trợ cho đức tin thuần túy thuở ban đầu.

Trước tình thế đó, các hoàng đế phản ứng theo hai hướng trái ngược nhau : hoặc thỏa hiệp hoặc thẳng tay triệt hạ. Thời thỏa hiệp vẫn có các cuộc tử đạo lẻ tẻ, nhưng trong giai đoạn bách hại, chính sách được áp dụng trên toàn đế quốc. Xin ghi lại những thời điểm chính :

a/. Gần 80 năm lắng dịu 212-249 ; 260-298

Có nhiều lý do giúp Giáo Hội được hưởng những thời kỳ thư thái này. Một số hoàng đế thiện cảm với đạo trong đó có Gallienus (260-268) có vợ là kitô hữu. Một số hoàng đế khác chủ trương đạo-tổ-hợp, đặt tượng Đức Giêsu bên cạnh các thần khác, như Severus Alexander (+235) nói : “Thà Thượng đế được thờ cách nào đó thì tốt hơn”. Ngoài ra có các hoàng đế ở trên ngai quá ngắn hạn, hoặc có vị muốn tranh thủ các tín hữu để chống lại man dân.

b/. Chiếu chỉ Septimus Severus 202

Sau giai đoạn 10 năm cởi mở, hoàng đế thấy số tín hữu tăng nhanh quá, nên : cấm dạy và theo đạo, đóng cửa các học viện như Alexandria, theo dõi lùng bắt khắp nơi. Tiêu biểu cho thời này là hai thánh nữ Perpêtua và Fêlixita (+203). Các hầm mộ được sử dụng nhiều hơn và trở thành sở hữu tập thể. Đức Calixto (+222) từng phụ trách tổ chức và mở rộng một khu rộng lớn.

c/. Chính sách Decius 249

Hoàng đế Decius không chủ trương giết hại, nhưng coi việc phụng tự hoàng đế là yếu tố bảo vệ sự thống nhất đế quốc. Vì thế ông tìm mọi cách để tín hữu bỏ đạo : giam lâu hơn, dụ dỗ, hứa hẹn, tra tấn, bắt đi lao động hầm mỏ, phát thẻ xông hương để kiểm tra. Đức Coreêlio tử đạo nơi lưu đày, Tarcio tử đạo khi mang Thánh Thể cho các tù nhân. Giai đoạn này nhiều tín hữu, vì sống yên ổn khá lâu, nên dễ yếu đuối chối đạo. Một số giám mục như Novatio cương quyết loại trừ họ, còn Đức Cornêlio và Công đồng Roma (257) chấp nhận cho họ trở về với Giáo Hội sau những thử thách cần thiết.

Hoàng đế Valêrio đi xa hơn : năm 257 ông cấm tụ họp phụng tự, tịch thu các nghĩa trang, tịch thu tài sản, đày ải giáo sĩ. Năm 258, ông xử tử những ai không dâng hương tế thần. Vấn đề trưng thu tài sản khiến các quan địa phương tích cực hơn, các tín hữu gặp áp lực ngay từ thân nhân trong gia đình. Cuộc tử đạo của đức Sixtô II và th. Laurensô (+258) phản ánh chính sách này

d/. Cơn Hồng thủy Diôclêtianô : 303-313

Để cai trị cho hiệu quả, Diôclêtianô áp dụng chính sách tứ quyền (Tétrarchie) : Bên Đông, ông chọn một phụ tá Galêrio, Bên Tây, Constantin Chlorus chọn Maximiano. Roma có 96 tỉnh nay sát nhập lại còn 12 tỉnh. Pháp luật được áp dụng gắt gao. Việc thờ cúng hoàng đế đạt đến thời vàng son, trở thành nghi lễ triều đình. Đây là lý do khiến hoàng đế nghi ngờ các tín hữu.

Từ 298, Galêrio buộc tất cả quân nhân phải dâng cúng. Sau đó ông áp lực để Diôclêtiano tung ra bốn sắc lệnh cấm đạo năm 303. Ngoài các biện pháp của Decius, hoàng đế còn ra lệnh thiêu hủy Sách Thánh, triệt hạ các nơi thờ phượng. Do tổ chức chính trị chặt chẽ, các quan địa phương phải răm rắp tuân theo. Nhiều hình khổ mới được sáng tạo để gây kinh hoàng cho các tín hữu. Năm 311, Maximiano Daia còn cho rảy nước tế thần trên mọi thực phẩm ở chợ … Thời này có nhiều vị tử đạo trong quân đội như Sebastiano (+296), Georgio (+303), đại đội Maximiano, và có nhiều thánh nữ tử đạo để vẹn toàn tiết hạnh như Agnes, Lucia, Catarina …

 

III. ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

3,1. Sinh hoạt và phượng tự

Tuy có lúc phải trốn tránh, Giáo Hội đã phát triển ngay giữa lòng xã hội. Tertuliano khẳng định : “Kitô hữu không xa lánh cuộc đời, chúng tôi vẫn lui tới công trường, bể tắm, xưởng thợ, tiệm buôn, chợ búa. Chúng tôi là thủy thủ, quân nhân, nông dân hay thương gia”. Dấu Thánh Giá và Con Cá = ICHTHUS : (Iesous Christos Theou Unios Soter), đã xuất hiện khi tình hình an ninh đòi buộc.

Nếu thời sơ khai, phụng vụ được cử hành trên gác nhà (Cv 20,7t) hoặc ở phòng ăn, thì dần dần các tín hữu sử dụng những tư gia dành riêng. Khoảng năm 250 mới xuất hiện các nhà thờ đầu tiên. Hầu hết tân tòng xin nhập đạo vì chứng kiến gương bác ái, tình huynh đệ cộng đoàn hoặc sự can đảm của các tử đạo. Sau thời gian thử nghiệm về hạnh kiểm, ứng viên phải có một tín hữu bảo lãnh (đỡ đầu) và sẽ được rửa tội trong lễ Phục Sinh cùng với việc đặt tay và tham dự bàn tiệc Thánh Thể (ba bí tích khai tâm).

Lễ tạ ơn các ngày thứ nhất trong tuần đưa tín hữu vào mầu nhiệm sự chết và Phục Sinh của Chúa. Trước lễ họ xưng thú lỗi lầm thiếu sót (Gc 5,16). Riêng các tội nặng (bội giáo, giết người, ngoại tình) chỉ được hòa giải một lần. Hôn nhân các tín hữu giữ theo tập tục đế quốc. Nhưng theo linh đạo của thánh Phaolô (Ep 5) một vợ một chồng và bất khả phân ly. Việc cầu nguyện và xức dầu người yếu liệt đã được nói đến trong thư Giacôbê (5,14-15).

 

3,2. Tổ chức cộng đoàn

Ngoài nhóm 12 tông đồ và 7 phó tế, các cộng đoàn sơ khai có ba tác vụ chính : các tông đồ du thuyết (như thánh Phaolô, Barnabê) ; các vị tiên tri giải thích Lời Chúa trong buổi họp và các tiến sĩ chuyên nghiên cứu Kinh Thánh.

Đầu thế kỷ thứ II, theo thánh Ignatio Antiokia ta thấy ba chức vụ : Giám mục, Linh mục và Phó tế. Các nhà du thuyết biến mất, họ định cư phục vụ các công đoàn, dần dần xuất hiện các tác vụ khác. Thống kê năm 250 ở Roma gổm “có 46 linh mục, 7 phó tế, 7 chuẩn phó tế, 42 thày giúp lễ, 52 thày trừ quỉ, nhiều thày đọc sách và giữ cửa” (Eusebio H.E 43,11). Tại Syria thế kỷ III còn thấy xuất hiện hai nữ phó tế, cũng được đặt tay thánh hiến, chuyên phục vụ nữ giới.

 

3,3. Ý nghĩa tử đạo

Martyr theo chữ có nghĩa là chứng nhân. Một vị tử đạo đúng nghĩa phải hội đủ ba yếu tố : khôn ngoan, can đảm và ý thức làm chứng cho Đức Kitô. Họ không phải là những người cuổng tín. Thánh Polycarpo nói :”Tôi đã khiển trách những kẻ tự ý nộp mình rằng đây không phải là Thần Khí của Thiên Chúa”.

Nhưng khi đã bị bắt, họ làm chứng cho tới cùng và theo gương Đức Kitô, chấp nhận cả cái chết. Họ làm chứng bằng thái độ tin tưởng, bằng lời nói và bằng chứng tá cho tình yêu tha thứ.

Chứng từ bằng máu đó thường mang đến những kết quả bất ngờ : dân chúng cảm xúc, lý hình trở lại và quan tòa cũng phải kính phục. Origène xin rửa tội khi chứng kiến thân phụ tử đạo. Justino trước chống các kitô hữu, đã trở lại vì nghĩ rằng “Họ không sợ chết là điều mọi người sợ, vậy họ không thể làm điều xấu được”. Tertuliano thì nói “các vị càng tiêu diệt chúng tôi càng gia tăng”. Vì “máu tử đạo là hạt giống trổ sinh kitô hữu”.

Thế nhưng, tử đạo còn là một hiến tế. Thánh Victrise quả quyết “tử đạo là gì nếu không phải là bắt chước Đức Giêsu Kitô” còn thánh Ignatio lại mong muốn trở thành hạt lúa bị thú vật nghiền nát, để trở thành “Bánh dâng lên Thiên Chúa”. Và trên giàn lửa thánh Polycarpo đã cầu nguyện rằng : “Lạy Chúa, hiến tế của con sắp hoàn tất trong ngày hôm nay … Xin tạ ơn Người cho con vinh dự chịu đau khổ, được cầm trong tay triều thiên tử đạo và được kề môi vào chén thương khó”.

Hiến tế ấy đưa các vị tử đạo vào mối phúc thứ tám, dành cho những người hiến dâng mạng sống cho Đấng mình yêu mến. Hiến tế ấy là dấu chắc chắn phúc vinh quang. Các tín hữu tôn kính các ngài như những vị thánh, lưu giữ thánh tích và kỷ niệm ngày các ngài sinh ra trên Thiên quốc. Sau này, các tín hữu chọn các ngài làm đấng bảo trợ. Nhưng Giáo Hội sẽ xác định vị nào thực sự là thánh tử đạo.

 

TOÁT YẾU

Lịch sử Giáo Hội thời tử đạo kéo dài hai thế kỷ rưỡi (64-313) trong đó thời bình xấp xỉ với thời hoạn nạn. Gổm hai thời kỳ :

1/. Thời Roma còn ổn định (64-192): Do những nghi kỵ với tôn giáo mới, do tin đồn thất thiệt và thú vui hí trường, cuộc tử đạo bộc phát dưới thời Nêrô, Domitiano. Suốt thế kỷ thứ 2, việc bách hại rải rác tùy theo khu vực, do chiếu chỉ Trajan năm 112 : cấm tầm nã, xét xử nếu bị tố cáo và tha cho tín hữu sám hối.

2/. Thế kỷ III : Từ năm 192, Roma bước vào cuộc khủng hoảng về mọi mặt : chính thế quân phiệt, kinh tế văn hóa xã hội suy đồi. Nên đứng trước một Giáo Hội trên đà phát triển, các hoàng đế hoặc thỏa hiệp hoặc bách hại trên toàn đế quốc. Riêng từ 212-249, 260-298 tình hình lắng dịu vì các vua nhu nhược, vì đạo tổ hợp hoặc vì cần các tín hữu góp phần chống nạn man dân.

Chiếu chỉ Septimus 202 cấm theo đạo, dạy đạo. Decius (249-251) chủ trương giam lâu, dụ dỗ , bắt lao động nặng và phát thẻ xông hương. Valerio (257-260) cho quan địa phương thu tài sản. Nhưng từ 298 và sau 303, Giáo Hội trải qua cơn hồng thủy thời Diocletiano khi lệnh bách hại buộc phải áp dụng cách máy móc tại các địa phương.

3/ Đời sống Giáo Hội : Tuy phải trốn tránh, các tín hữu vẫn sống chan hòa trong lòng xã hội, thực hành đủ nghề nghiệp. Trong những lúc căng thẳng, hang toại đạo là thành phố ngầm cho họ cư ngụ. Sinh hoạt tôn giáo đi sâu vào sống bí tích. Các chức vụ Giám mục, Linh mục, Phó tế đi vào ổn định.

Để thành vị tử đạo phải hội đủ năm yếu tố : khôn ngoan, can đảm làm chứng cho Đức Kitô đặc biệt bằng tình yêu tha thứ; ngoài ra tử đạo còn là một hiến tế, là con đường chắc chắn nhất đón nhận mối phúc thứ tám Chúa đã hứa thuở xưa.

 

CÂU HỎI
1. Các dư luận sai lầm về Giáo Hội thời tử đạo ?
2. Nội dung chính các nhà hộ giáo bênh vực Giáo Hội ?
3. Chính sách bách hại trước năm 192 ?
4. So sánh tình hình Giáo Hội và Đế quốc sau năm 192 ?
5. Các biện pháp Roma dùng để cản trở Giáo hội t.kỷ III
6. Biết gì về đời sống và phụng tự Giáo Hội sơ khai ?
7. Các tác vụ chính quản trị Giáo Hội những thế kỷ đầu ?
8. Ý nghĩa tử đạo ?

 

BÀI ĐỌC THÊM

 

VIỆC TÔN THỜ HOÀNG ĐẾ

… Các quan phải đặt ảnh hoàng đế Augustô, thân phụ của Cêsar vào chỗ nhất, chỗ thứ hai, phía bên phải, phải đặt ảnh Augusta (Livia, vợ của Augustô), và chỗ thứ ba phía bên trái, đặt ảnh của Tiberiô Cesar, con trai Augustô, thủ đô sẽ cung cấp các bức ảnh đó cho các quan. Ngoài ra, ở mỗi nhà hát, phải đặt một bàn thờ và một lư hương, trước khi các nghệ sĩ xuất hiện thì các thành viên của hội đồng và tất cả các quan chức sẽ dâng hương chúc tụng các vị hoàng đế (…)

(Bản ghi bằng tiếng Hy Lạp từ năm 14 tới 15 sau công nguyên,
khởi đầu triều đại Tibère, trích trong petit, op.cit trang 125).

 

KITÔ HỮU, KẺ DỄ TIN VÀ NGÂY THƠ

Luciano (125-192), văn sĩ Hy lạp gốc Samosate xứ Syrie, đã đi du lịch nhiều nơi và đã sáng tác nhiều truyện ngắn, thường là các mẫu đối thoại. Ông đã ghi lại hình ảnh vui của xã hội thời đó, chế giễu các giá trị đã được thiết lập : triết học và tôn giáo. Trong tác phẩm “cái chết của kẻ lang bạt “, ông kể về cuộc đời một tên bịp bợm khoác lác, đã một thời khai thác tính dễ tin của kitô hữu. Đối với Lucianô, đây là cơ hội để trình bày về các kitô hữu như những kẻ ngây thơ.

Trước hết, những người đáng thương này xác tín rằng họ sẽ bất tử và sẽ sống mãi. Vì thế họ coi thường cái chết và nhiều người tự ý chấp nhận cái chết. Người sáng lập tôn giáo của họ đã thuyết phục họ rằng tất cả họ đều là anh em. Từ khi bỏ các vị thần Hy lạp, họ thờ một gã ngụy biện bị đóng đinh và sống theo lời dạy của ông. Thế là họ coi thường của cải và góp tài sản để dùng chung (…) Bỗng dưng xuất hiện trong số họ một tên bịp bợm khôn khéo, biết lợi dụng tình thế, hắn có thể làm giàu nhanh chóng, nắm đầu những kẻ ngu ngơ đó làm theo ý mình.
(Trích trong P.de Labriolle,
La réaction paienne, Paris 1934, trang 103).

 

LỜI ĐỒN ĐẠI

Tôi nghe nói rằng, các kitô hữu do niềm tin phi lý nào đó thúc đẩy mà tôi không biết, đã tôn thờ đầu một con vật xấu xí, đó là đầu con lừa. Nghi thức nhập đạo thì thật khủng khiếp. Một đứa trẻ được phủ đầy bột đặt trước mặt người dự tòng, để người này khỏi nghi ngờ. Người dự tòng bị đánh lừa bởi lớp bột, tin rằng những nhát dao của mình vô hại, và thế là y đã giết chết đứa trẻ (…) Họ đua nhau liếm máu của đứa trẻ, rồi tranh dành, chia nhau các phần chi thể. Chính bởi tội ác này đã liên kết họ với nhau, chính vì đã đồng lõa vi phạm tội ác, họ thề sẽ cùng giữ bí mật (…)

Còn về các bữa tiệc của họ thì mọi người đều biết cả, vì đâu đâu cũng thấy nói (…) Vào các ngày lễ họ tụ họp dự tiệc cùng với tất cả con cái, chị em, và mẹ của họ, đàn ông đàn bà con trai con gái, thuộc mọi lứa tuổi. Sau khi đã ăn uống no đầy, khi cơn say đốt lên lửa dục loạn luân, thì họ thúc con chó đã được cột sẵn vào trụ đèn dầu nhảy lên bằng cách ném thức ăn cho nó xa hơn chiều dài sợi dây cột . Thế là đèn rớt xuống và tắt ngúm (…) Khi đó họ ôm ghì lấy bất cứ ai và nếu họ không loạn luân bằng hành động, thì họ cũng đã loạn luân trong ý muốn.
(Minucius Felix, Octavius, IX,6
trích trong : Labriolle, La Reaction paienne, trang 91).

 

Ý KIẾN CỦA CELCUS

Có một giống người mới sinh hôm qua, chúng vô tổ quốc cũng chẳng có truyền thống, đã liên kết với nhau để chống lại mọi tổ chức tôn giáo và dân sự, bị công lý truy nã, bị mọi người sỉ nhục, chúng lại lấy làm vinh dự vì sự khinh bỉ này : đó là các Kitô hữu (…)

Đây là các châm ngôn của họ :”Đi khỏi đây, hỡi những người có văn hóa, khôn ngoan, biết phán đoán; với chúng tôi, những kẻ văn hóa, khôn ngoan là những kẻ xấu. Còn người dốt nát, thiển cận, thất học và đơn sơ , hãy mạnh dạn đến với chúng tôi”. Khi nhận rằng những hạng người đó mới xứng với Chúa của mình, họ cho chúng ta thấy rõ là họ chỉ muốn và chỉ thu nạp những tên khờ khạo, những tâm hồn xấu xa, ngu xuẩn, các nô lệ, đàn bà và trẻ em đáng thương.

Muốn bác bỏ việc một Thiên Chúa xuống trần gian để công chính hóa con người thì chẳng cần gì phải lý luận dài dòng. Bởi lẽ Thiên Chúa có ý định gì khi vào trần gian này ? Phải chăng là để biết chuyện gì xảy ra nơi con người ? nhưng Ngài vốn biết tất cả mọi sự mà ! Hay là, dù biết mọi sự nhưng quyền năng của Ngài bị hạn chế đến nỗi Ngài không thể sửa lại các sai trái nếu không gửi ngay vị đại diện xuống trần gian (…)

Phải chăng vì phần rỗi của chúng ta mà Thiên Chúa muốn tự mạc khải mình để cứu độ những kẻ được coi là đạo đức, tức những kẻ nhận biết Ngài,và để phạt những kẻ xấu là những kẻ khước từ Ngài ? Nếu thế thì người ta phải nghĩ rằng sau nhiều thế kỷ Thiên Chúa mới lo công chính hóa nhân loại, còn trước đó Ngài không quan tâm gì tới ? (…) Thiên Chúa là chân, Thiện, Mỹ; Ngài là sự thiện tối cao, là vẻ đẹp tuyệt hảo. Nếu xuống trần gian Ngài sẽ phải chịu sự biến đổi : thiện hảo sẽ biến thành độc ác, vẻ đẹp thành xấu xí, hạnh phúc thành bất hạnh, trọn hảo thành thiếu sót (…) một sự thay đổi như thế không thể nào xứng hợp với Thiên Chúa được.

Nếu các Kitô hữu không chịu làm trọn phận sự phụng tự thông thường, không chịu tỏ lòng tôn thờ vị cầm quyền thì họ cũng phải từ chối việc người ta giải phóng mình, từ chối quyền cưới vợ, sinh con, và kiếm sống. Họ chỉ còn cách là đi xa khỏi đây, không để lại chút mầm mống nào, hầu trái đất không còn giống người này nữa. Nhưng nếu họ muốn lập gia đình, có con cái, ăn hoa quả của đất, thì họ phải chia sẻ niềm vui lẫn nỗi đau của cuộc sống, phải trả lại cho những người được ủy thác cai trị niềm vinh dự họ đáng được.

Nếu ai cũng như các người, thì hoàng đế chỉ còn một mình và bị bỏ rơi. Như thế, đế quốc sẽ trở nên miếng mổi cho man dân thô bạo nhất, dữ tợn nhất. Chẳng mấy chốc, cái tôn giáo đẹp đẽ của các người sẽ chẳng còn dấu vết nào, và thế là xong, không thể nào cứu vãn được vinh quang của sự khôn ngoan đích thực trong loài người nữa (…)

Hãy đem hết sức mình phục vụ hoàng đế, hãy cùng ngài bảo vệ luật pháp, hãy chiến đấu vì ngài nếu tình thế đòi hỏi, hãy giúp đỡ ngài trong việc điều khiển quân đội. Để làm được những điều đó, các người đừng trốn tránh nghĩa vụ dân sự và quân sự, nếu cần hãy nhận các chức vụ nhà nước vì luật pháp đòi hỏi và vì lý do đạo đức.
(Celse, La Parole de Vérité qua tác phẩm “Contre Celse”
của Origène thế kỷ III, – JC. Để đọc LSGH I. tr 38).

 

PORPHYRE

Nếu cho rằng người Hy lạp khá đần độn vì nghĩ các thần ở trong tượng đá, thì quan niệm đó vẫn trong sáng hơn, kẻ cho rằng Thiên Chúa đã xuống trong cung lòng Trinh nữ Maria, đã trở thành một thai nhi, và sau khi lọt lòng mẹ, đã được vấn tã, vấy đầy máu me, và còn những thứ tệ hơn nữa (…).

Tại sao khi bị dẫn tới trước mặt vị thượng tế và chính quyền, ông Kitô không nói được một lời nào xứng với bậc hiền triết, một nhân thần….? Ngài đã để cho người ta đánh đập, khạc nhổ vào mặt, đội vòng gai (…) Cứ cho rằng ông phải chịu đau khổ theo lệnh của Thiên Chúa, phải chấp nhận hình phạt, nhưng trong suốt cuộc khổ nạn, ông không có lấy một diễn từ can đảm, một đôi lời mạnh mẽ và khôn ngoan để đối lại với Philatô, kẻ xét xử ông lại để ông ta xỉ nhục như một tên vô lại ở đầu đường xó chợ.

Còn về việc phục sinh : một sự dối trá kinh khủng (xem Thes. 4, 14) người ta đã biến chế nó thành bài hát cho những con vật vô tri để chúng đáp lại, và các con vật này hét rống lên, tru tréo lên, ổn ào điếc tai, với ý tưởng con người bằng xương bằng thịt, tự bay lên không trung như chim, hay được nâng lên trên đám mây (…)
(Trích trong Labriolle, trang 260 tt).

 

LỜI NGUYỆN CHO CHÍNH QUYỀN
Bức thư của th. Clêmente kết thúc bằng một “lời nguyện chung” cầu cho các Kitô hữu và hết mọi người.

Lạy Chúa, xin ban sự hòa thuận và bình an cho chúng con và mọi dân cư trên trái đất, như Chúa đã ban cho cha ông chúng con khi cha ông chúng con cầu khẩn Danh Chúa trong đức tin và chân lý. Vì thế, xin Ngài hãy làm cho chúng con biết phục tùng Danh toàn năng và chí thánh Ngài, cũng như với các vị đang lãnh đạo và hướng dẫn chúng con dưới thế này.

Lạy Chúa, chính Ngài đã ban cho họ quyền năng do uy lực lớn lao và khôn tả của Ngài, để khi đã hiểu rằng chính do ngài, họ nhận được vinh quang và vinh dự, chúng con sẽ tùng phục họ và sẽ không làm gì trái ý Chúa. Xin Chúa ban cho họ sức khỏe, bình an, hòa thuận, ỗn định, để họ thực thi quyền hành Chúa ban cách tốt đẹp
(Clément de Roma, Thư gửi tín hữu Corintô, 60-61
trích trong “Les Ecrits des Pères apostoliques” trang 108).

 

TERTULIANO MÔ TẢ CỘNG ĐOÀN

Tertuliano (155-222) ở Carthage đã đem tài trạng sư của mình để bênh vực các Kitô hữu, lòng can đảm của họ đã khiến ông trở lại. Sau tác phẩm của thánh Augustinô, tác phẩm của ông thuộc vào loại quan trọng nhất của văn chương Kitô giáo La tinh, và là tác phẩm đầu tiên mang tính bút chiến.

Chúng tôi mới xuất hiện hôm qua, nhưng hôm nay chúng tôi đã có mặt khắp lãnh địa và các tổ chức của quý vị : thành phố, hải đảo, đổn binh, đô thị tự trị, làng xã, trại lính, quân đội, đền đài, thượng viện, chợ búa, nghị trường ; chúng tôi chỉ chừa lại cho quý vị các đền thờ thần thôi ! (…) Đã đến lúc đích thân tôi trình bày cho quý vị sinh hoạt của nhóm người mà quý vị gọi là “bọn phiến loạn Kitô giáo” để sau khi đã chứng minh các sinh hoạt đó không phải là xấu, tôi sẽ cho quý vị thấy đó là những sinh hoạt rất tốt.
Chúng tôi là một thân thể vì cùng có một niềm tin, tuân giữ cùng một kỷ luật, liên kết trong cùng một niềm hy vọng. Chúng tôi hợp thành một hiệp hội, một đoàn thể vây quanh Thiên Chúa bằng kinh nguyện của chúng tôi như một đoàn quân xiết chặt vòng vây. Khí giới này làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho các hoàng đế, cho các vị cầm quyền, cho quân đội, cho tình thế hiện nay, cho hòa bình thế giới, cho tận thế chậm đến. … Nhưng nhất là khi chúng tôi thực thi đức ái, những kẻ bêu xấu chúng tôi, sẽ phải nói : “Kìa xem họ yêu nhau như dường nào”, bởi vì những kẻ ấy thường ghen ghét lẫn nhau ; và nói : “Kìa xem họ sẵn sàng chết cho nhau”, vì những kẻ ấy chỉ rình giết nhau. Còn tiếng “anh em”, một từ ngữ riêng của kitô hữu chúng tôi, thì họ lại cắt nghĩa sai đi. Tôi tin rằng ở nơi họ, tất cả các từ ngữ chỉ mối quan hệ thân thuộc, đều là những tình cảm giả vờ.

Chúng tôi cũng là anh em với quý vị vì thiên nhiên là bà mẹ chung của chúng ta ; quý vị sẽ không là người nữa nếu quý vị không là anh em tốt với nhau. Nhưng người ta càng có lý hơn nữa, khi gọi và coi nhau như anh em vì cùng nhận một Thiên Chúa là Cha chung, vì cùng được no thỏa bởi cùng một thần khí thánh thiện và cùng được ánh sáng chân lý chiếu soi, sau khi đã cùng nhau ra khỏi vực sâu u tối, mê muội.

… Chúng tôi cùng chung sống với quý vị, cùng của ăn, áo mặc như quý vị, cùng kiểu sống như quý vị, cùng có những nhu cầu cuộc đời như quý vị. Chúng tôi không phải là các tu sĩ Bà la môn hay những thầy tu khổ hạnh (fakirs) ở rừng sâu Ấn Độ hay những người xa lìa cuộc sống (…). Chúng tôi vẫn đến nghị trường, chợ búa, nhà tắm công cộng, quán xá, cửa hàng, nhà trọ, hội chợ và các nơi buôn bán khác của quý vị, chúng tôi ở trong thế giới này của quý vị. Cùng quí vị, chúng tôi là quân nhân, nông gia và là thương nhân.
(Tertullianô, Apologétique, chương 37,39, 42
được viết vào khoảng năm 200, trad. Belles Lettres).

 

KITÔ HỮU KHÔNG THỂ LÀ QUÂN NHÂN

Khi cấm các tín hữu quân nhân mang vòng hoa trong các buổi cúng tế, Tertullianô kết luận rằng Kitô hữu không được ở lại trong quân đội.

… Kitô hữu có được phép dùng gươm không, khi Chúa đã dạy: ai dùng gươm sẽ chết vì gươm ? Là con của hòa bình, ngay cả việc tranh cãi nhau cũng không được phép, vậy Kitô hữu có được đi chiến đấu không ? Người Kitô hữu có thể kết án người khác mang xiềng xích, tù ngục, tra tấn hay tử hình không, trong khi chính anh ta không được trả thù những bất công người khác gây ra cho mình ? Kitô hữu có được đứng gác đền thờ thần mà anh ta đã từ bỏ không ? Anh ta có được phép ngổi ăn ở những nơi mà thánh tông đồ đã cấm không ? Những kẻ mà kitô hữu phải tránh xa như phù thủy thì khi tai biến đến kitô hữu có được bảo vệ họ bằng cây giáo đã từng đâm sâu cạnh sườn Đức Kitô không ? Liệu anh ta có thể mang cờ hiệu đối thủ của Đức Kitô không ?

 

DỰ TÒNG BỊ CẤM MỘT SỐ NGHỀ

Thánh Hippolitô, linh mục ở Roma, đầu thế kỷ III, trong cuốn Tradition apostolique (truyền thống tông đồ), đã đề nghị các mẫu kinh Phụng vụ và chỉ rõ các điều kiện cần thiết để lãnh bí tích rửa tội, các thừa tác vụ…

… Ai là tư tế hay canh giữ đền thờ thần ngoại thì phải bỏ nghề hoặc bị đuổi (không được học đạo). Quân nhân cấp dưới không được giết ai cả. Nếu nhận lệnh thì không được thi hành và không được tuyên thệ. Nếu từ chối sẽ bị đuổi. Ai có quyền xét xử, làm quan án trong thành phố mặc áo đỏ, phải từ chức nếu không sẽ bị đuổi. Người mới học đạo hay tín hữu gia nhập quân đội sẽ bị đuổi vì họ coi thường Thiên Chúa.
Hippolyte, La Tradition apostolique
(Sources Chrétiennes)

 

BỨC THƯ CỦA PLINE GỬI HOÀNG ĐẾ TRAJAN

… Tôi chưa bao giờ tham gia vào một cuộc thẩm tra các kitô hữu nào ; vì vậy tôi không biết thường thường người ta dựa vào sự kiện gì để trừng phạt họ, tra hỏi về cái gì và phải đi đến đâu (…)

Phải chăng chỉ vì mang tên kitô hữu, không cần có tội ác nào, hay là danh xưng kitô hữu gắn liền với tội ác mà ta phải trừng phạt ? Tạm thời, đây là cách tôi đã theo đối với các kitô hữu được giao nộp cho tôi. Đích thân tôi hỏi họ có phải là Kitô hữu không? Đối với những người nhận mình là kitô hữu tôi hỏi lại lần thứ hai, rồi lần thứ ba đồng thời dùng cực hình để dọa họ. Kẻ nào cứ một mực xưng mình là Kitô hữu, tôi ra lệnh xử tử. Thực ra, dù việc xưng mình là Kitô hữu có ý nghĩa gì đi nữa, thì đối với tôi, thái độ cứng đầu và cố chấp đã đáng bị trừng phạt rồi. Trong số những người cuồng tín này có những công dân Roma, tôi đã ghi tên và giải họ về Roma (…) nhiều trường hợp đặc biệt đã xảy ra (…)

Có nhiều người chối đạo, không nhận mình hiện là Kitô hữu hay đã là Kitô hữu. Theo lệnh tôi, họ kêu khấn các thần linh, dâng hương và rượu, cầu xin trước tượng ngài, hơn nữa, còn phỉ báng danh Giêsu Kitô, nghĩa là tất cả những gì mà theo người ta nói, không thể nào ép buộc được những kẻ thực sự là kitô hữu. Với những người này, tôi nghĩ là phải thả họ ra …

Một số người khác quả quyết rằng họ đã bỏ đạo không còn là kitô hữu nữa, người được ba năm, người lâu hơn, kẻ khác đã bỏ được 20 năm. Tất cả họ đã tôn thờ tượng ngài, các tượng thần và phỉ báng Giêsu Kitô.

Đàng khác, họ quả quyết rằng tất cả tội lỗi và sai lầm của họ chỉ là thường xuyên tụ họp vào đúng ngày đã định, trước khi mặt trời mọc, để cùng nhau đối đáp bài ca ca tụng Đức Kitô là Chúa và cùng thề hứa với nhau, không phải là kết ước gây tội ác này hay tội ác kia, nhưng là hứa không phạm tội ăn trộm, ăn cướp, ngoại tình, lỗi lời hứa, không từ chối ở tù khi bị đòi buộc. Sau đó họ có thói quen là chia tay nhau rồi lại họp nhau để dùng bữa, bữa ăn này rất bình thường và vô tội vạ ngay cả cách thực hành này họ đã bỏ ngay sau tôi theo lệnh ngài cấm các cuộc hội họp. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng cần phải tiến hành việc tìm kiếm cho ra sự thật nên tôi cũng đã tra tấn hai nữ nô lệ mà họ gọi là hai nữ phó tế. Tôi đã chẳng tìm thấy một sự mê tín vô lý và quá độ nào cả.

Vì vậy, tôi đã xin ngưng thi hành lệnh để xin tôn ý của ngài. Tôi thấy rằng nội vụ này đáng phải làm như vậy, nhất là vì số người bị ghép tội. Đó là một đám đông đủ mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội, phái nam phái nữ, đã bị hoặc sẽ bị đem ra xét xử. Thứ mê tín này đã lan tràn ra không chỉ ở thành thị mà cả ở làng mạc, thôn quê. Tôi tin rằng chúng ta có thể chặn đứng nó được và tìm ra phương dược để chữa trị. Vì thế, hiện nay tôi thấy đền thờ trước đây hoang vắng thì nay lại có người thường xuyên lui tới, những cuộc đại lễ lâu nay phải bị gián đoạn nay được tiếp tục lại (…)
(Pline le Jeune, Correspondance, X, 96,
trad. Belles Lettres).

 

PHÊLIXITA TỬ ĐẠO TẠI CARTHAGO (+203)

Félicité được Chúa ban một ơn trọng đại. Bà bị bắt khi đã có thai được tám tháng. Gần ngày có tổ chức những cuộc vui chơi, bà cảm thấy buồn phiền vì cuộc xử tử bà sẽ bị hoãn lại : vì luật Roma cấm giết đàn bà có thai. Bà sợ rằng sau này máu tinh tuyền, không tì vết của mình sẽ hòa trộn với máu kẻ gian ác. Những bạn tù chịu tử đạo cũng buồn khi nghĩ rằng phải bỏ lại một người bạn tù rất tốt, một người bạn đã cùng họ tiến bước đến cùng một niềm hy vọng.

Vì vậy, ba ngày trước khi diễn ra cuộc lễ vui, mọi người cùng đồng tâm hiệp ý cầu nguyện, dâng lên Chúa lời khẩn xin của họ. Ngay khi vừa cầu nguyện xong, Félicité chuyển bụng sinh con. Và do sự khó khăn tự nhiên vì sinh con vào tháng thứ tám, bà đau đớn, rên la. Lúc đó người cai tù nói với bà : “Đau đẻ mà rên như vậy thì khi bị đem ra cho thú dữ, bà sẽ ra sao ?” Félicité đáp lại :”Lúc này tôi phải chịu đau đớn, nhưng đến lúc đó, một Đấng khác trong tôi sẽ chịu đau đớn thay cho tôi, bởi chính vì Ngài mà tôi chịu đau đớn”.
(Texte présenté dans A.Kamman, La Geste du sang, p.81).

Đọc thêm

Khi có lệnh thiêu hủy Sách Thánh, Irena ở Salonique tuyên bố : “Tôi thà chịu thiêu sống chứ không chịu để sách Thánh bị đốt”. Còn thày phó tế Hermes ở Heracles thì nói : “Thưa quan tòa, giả dụ ngài tìm thấy và đốt hết sách Thánh của chúng tôi, thì hãy biết cho rằng, con cháu chúng tôi trung thành với những kỷ niệm của cha ông, sẽ tái tạo những tác phẩm ấy nhiều gấp bội”.

 

Lm Phanxicô Xaviê Ðào Trung Hiệu OP
Hiệu đính tháng 9/2006

Để lại một bình luận

Tel: 0968428072