KH & ĐT: Linh hồn của con người
VẤN ĐỀ 06: Trong con người không có yếu tố nào gọi là linh hồn thiêng liêng cả mà chỉ có thân xác vật chất thôi. Tư tưởng của con người là sản phẩm do óc não bài tiết ra, giống như gan trong bụng bài tiết ra mật vậy.
GIẢI ĐÁP:
A. TRÌNH BÀY:
Ngày nay, môt số người chủ truơng duy vât: chỉ công nhận những gì là vật chất mà người ta có thể thấy, sờ hay cân đo đong đếm được, đồng thời phủ nhận tất cả những gì vô hình được gọi là tinh thần, linh hồn nơi con người, hay những thực tại thiêng liêng siêu nhiên như Thượng Đế, Thiên Chúa, thần linh nơi vũ trụ thiên nhiên. Theo họ: Mọi thực tại đang hiện hữu đều là vật chất, đều do vật chất mà phát sinh. Con người cũng chỉ thuần là vật chất như bao vật khác. Ngay cả ý thức, tư tương mà người ta gọi đó là tinh thần v.v…cũng chỉ là sản phẩm của vật chất không hơn không kém, do óc não bài tiết ra giống như gan trong bụng bài tiết ra mật vậy.
Engels viết: chỉ có một thực tại duy nhất, đó là thế giới vật chất mà con người có thể tri giác được bằng giác quan… Ý thức và tư tưởng của chúng ta mặc dù có siêu việt tính, nhưng cũng chỉ là sản phẩm của cơ thể vật chất (thể xác, khối óc…). Tinh thần chỉ là sản phẩm thượng đẳng của vật chất (Engels: ludwiffucrbach)
Nhưng hầu hết những người có lương tri đều không chấp nhận lập trường duy vật nói trên. Bất cứ ai cũng cảm thấy rằng: con người không chỉ là vật chất, vì ngoài thể xác vật chất, còn có một yếu tố khác siêu vật chất, làm cho con người khác hẳn vật chất, đồng thời vượt trên mọi động vật khác trong thiên nhiên. Yếu tố siêu vật chất ấy được gọi là linh hồn
Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu những khác biệt giữa con người và vật chất, giữa con người với các loài vật khác, chứng tỏ con người không chỉ thuần là vật chất vì có linh hồn, và tư tưởng của con người thực sự không phải chỉ là sản phẩm của óc não vật chất, nhưng chính là một hoạt động của linh hồn qua trung gian óc não.
1. CON NGƯỜI TUY LÀ VẬT CHẤT, NHƯNG KHÁC VẬT CHẤT VÌ CÓ LINH HỒN:
1) CON NGƯỜI LÀ VẬT CHẤT:
Nếu đem con người đi phân chất thì kết quả cho thấy: con người cũng chỉ là vật chất, được cấu tạo bằng vật chất tầm thường như bao vật khác. Gần đây, một nhà bác học Hoa Kỳ đã phân tích và đánh giá thân xác con người như sau:
“Trong con người có một số nước đủ giặt một chiếc khăn bàn; máu đỏ chứa đựng chất sắt có thể làm được 7 cái đinh đóng móng ngựa. Xương cốt có một số chất vôi có thể dùng để quét được một bức tường nhỏ. Nếu đem đốt con người ra than thì có thể dùng số than ấy làm ra được 65 cây viết chì. Ngoài ra con người còn có một ít chất phốt phát đủ làm một hôp diêm và chừng mấy muỗng cà phê chất muối. Đem tất cả nhưng thứ đó bán chỉ được 98 xu, không được một mỹ kim!”.
Đó là giá trị của con người vật chất. Nhưng may mắn thay, con người còn có linh hồn. Chính linh hồn đã làm cho con người có giá trị hơn mọi vật trong vũ trụ thiên nhiên. Sau đây là những lý chứng cho thấy con người không thuần là vật chất vì còn có linh hồn siêu vật chất nữa.
2) CON NGƯỜI KHÁC VẬT CHẤT:
a) Vật chất thì bất động, khác hẳn với con người sống động vì có linh hồn:
– Thực vậy, vật chất chỉ biến đổi từ tình trạng này sang tình trạng kia chứ không sống động và xê dịch được như con người: Vải vóc là vật chất, theo định luật lý hóa thì sau một thời gian, sẽ trở nên cũ hơn và bị mất màu do tác động của ánh sáng, không khí… Rượu nho là vật chất sẽ bị ốc xít hóa biến thành giấm chua nếu tiếp xúc với không khí một thời gian… Tuy có sự biến đổi, nhưng vật chất nói trên không tự mình di dời sang chỗ khác được, không thể tự hấp thụ đồ ăn để tăng triển dần lên… như các sinh vật khác.
– Nguyên lý của sự sống được gọi là hồn với 3 cấp bậc: từ đơn sơ đến phức tạp, từ tầm thường đến cao quý như sau:
+ SINH HỒN: Có đặc tính sống động, tự dinh dưỡng và tăng triển. Sinh hồn xuất hiện nơi các loài thảo mộc cây cối.
+ GIÁC HỒN: Vừa có các đặc tính của sinh hồn nói trên, mà còn có thêm cảm gíac, có thể chuyển dịch từ nơi này đến nơi khác… Giác hồn có trong các loài động vật và hoạt động theo một qui luật thiên nhiên gọi là bản năng như: bản năng tự vệ, bản năng sinh tồn…
+ LINH HỒN: Sự sống trở nên phức tạp. Vì vừa có tất cả các đặc tính của các lòai sinh vật động vật, lại vừa có cả lý trí biết suy nghĩ và ý chí quyết định cách tự do nữa. Sự sống đặc biệt này chỉ có nơi con người và được gọi là linh hồn. Như vậy, con người tuy là vật chất, nhưng khác hẳn vật chất vì có linh hồn.
b) Vật chất thì vô tri, khác với con người ý thức về mình:
– Theo các nhà bác học: con người có thân xác vật chất, được cấu tạo bằng những tế bào vật chất, và chỉ trong thời gian 7 hoặc 8 năm, khi mọi tế bào trong thân xác biến đổi tăng triển, thì thân xác con người cũng sẽ biến đổi hòan tòan nên một người mới.
– Vậy ngoài phần thân xác vật chất thay đổi nói trên, con người đã phải có một yếu tố siêu vật chất và tồn tại mãi khi vật chất thay đổi, để có thể nhận ra mình vẫn là mình từ sơ sinh cho đến lúc chết. Yếu tố thiêng liêng siêu vật chất ấy được gọi là LINH HỒN.
Claude Bernard, giáo sư y khoa đại học Paris, nhân viên hàn lâm viện khoa học Pháp đã trình bày vấn đề này như sau: “Thân xác con người là một tổ hợp những chất luôn thay đổi theo định luật biến hóa không ngừng. Mỗi ngày bạn mất một ít ca-lo-ri của thể xác, và cái phần mất ấy sẽ được bù lại và tăng triển biến đổi nhờ những thực phẩm mới hấp thụ. Như thế trong khoảng thời gian 8 năm, thịt xương của bạn hiện nay sẽ được thay thế bằng thịt mới xương mới. Bàn tay bạn đang cầm bút viết hôm nay không phải bàn tay trước đây 8 năm. Cái sọ của bạn không chứa đựng chất óc như cách đây 8 năm, vì tất cả các tế bào óc não đều đã biến đổi hết. Nhưng tại sao bạn vẫn nhớ được những điều đã xem, đã làm, đã học cách đây 8 năm? Nếu tư tưởng là những hình ảnh được in vào các ô xếp trong óc thì những hình ảnh ấy làm sao tồn tại được nếu các ô tế bào trong óc đã đổi mới hết? Như vậy, trong con người phải có một cái gì khác với vật chất, không phải vật chất, luôn tồn tại mãi và biệt lập với thân xác vật chất. Cái đó chính là LINH HỒN vậy”.
c) Vật chất thì cố định, hạn hẹp trong không gian và lệ thuộc vào thời gian, khác với con người có khả năng vượt trên không gian thời gian:
– Con người tuy có thân xác vật chất: sống trong thời gian và chiếm môt vị trí bé nhỏ trong không gian, nhưng con người lại trổi vượt hơn hẳn vật chất, vì có khả năng lục xét mọi thời đại: quá khứ, hiện tại và tương lai, đồng thời còn có thể nghiên cứu được mọi vị trí trong không gian. Chẳng hạn: bạn đang ngồi trong lớp học, nhưng bạn có thể không ý thức đang làm gì mà lại để tâm nghĩ đến cha mẹ ở nhà, hoặc sống lại giây phút thần tiên của buổi đi chơi xa trong tuần qua…
– Như vậy, trong con người, ngoài phần vật chất thể xác, còn phài có một nguyên lý linh thiêng siêu vật chất, biệt lập với vật chất để có thể vượt ra ngoài không gian và thời gian hiện tại. Nguyên lý linh thiêng ấy được gọi là LINH HỒN.
TÓM LẠI con người tuy là vật chất, nhưng có những đặc tính khác hẳn vật chất, vượt lên trên vật chất để trở thành một loài có giá trị đặc biệt. Nếu con người chỉ thuần là vật chất, hoàn toàn lệ thuộc và ở trong thế giới vật chất… thì trí khôn họ làm sao xuất hiện? Nếu chỉ là vật chất thì tại sao con người lại ý thức được mình đang bị cột chân xuống thế giới vật chất? Nếu không vượt được ra ngoài vật chất thì làm sao thống trị được vật chất? Hơn nữa, trong con người có lương tâm luân lý với nhiệm vụ phê phán các hành động của chính mình: Khi làm được một việc tốt, con người sẽ cảm thấy vui sướng tự hào… Trái lại sẽ cảm thấy hổ thẹn với bản thân, sẽ bị lương tâm cáo trách dày vò, nếu làm một việc sai trái không tốt. Như vậy, lương tâm ấy có phải vật chất, có tùy thuộc vật chất hay không?
Khi so sánh con người với các hiện tượng thiên nhiên vật chất, ÉTIENNE BERNE đã viết: “Hiện tượng người có liên quan chặt chẽ với thiên nhiên… Con người không phải chỉ là một hiện tượng thiên nhiên, vì họ đã phát sinh ra khoa học để tra vấn, lục xét thiên nhiên và ý thức mình là một chủ thể tự do. Khoa học càng tiến bộ, người ta càng nhận thấy mối tương quan mật thiết giữa con người với thiên nhiên, nhưng đồng thời người ta cũng nhận thấy con người có khả năng tách biệt ra khỏi thiên nhiên hỗn mang. Chính hai sự kiện trái nghịch nhau trong con người như thế là yếu tính của con người” ( E.Borne: Dieu n’est pas mort).
2. CON NGƯỜI TUY GIỐNG CON VẬT, NHƯNG VẪN KHÁC VÌ CÓ LINH HỒN:
1) CON NGƯỜI GIỐNG CON VẬT: Khi so sánh con người với một số động vật thượng đẳng, người ta thấy dường như có sự giống nhau nào đó, khiến cho nhiều người lầm tưởng: con người cũng chỉ là con vật, và không có cái gì gọi là linh hồn nơi con người. Người ta đã nêu ra một số điểm giống nhau giữa con người và một số lòai vật như sau:
a) Về hình dạng thân thể: Loài khỉ vượn có khuôn mặt, thân hình, tay chân và các bộ phận nằm sâu trong cơ thể… rất giống con người. Khi một con khỉ bị bệnh, người ta cũng có thể chữa trị với cùng một cách thức như chữa bệnh cho con người. Ngoài ra, con khỉ còn có cảm giác đau đớn, sợ hãi… giống như con người, nên có người đã đi đến kết luận: “Nhân sao vật vậy”..
b) Về sự hiểu biết: Con vật cũng có sự hiểu biết tương tự như trí khôn con người. Chẳng hạn, con chó có thể phân biệt được chủ hay khách lạ. Một võ quan thú y kể rằng: mấy con ngựa cũng biết giả bộ bị què đi khập khiễng để khỏi phải ra mặt trận là nơi trước đó nó đã từng bị thương.
Nhà bác học KOHLER đã làm một thí nghiệm để thử trí thông minh của loài khỉ Chimpazé, như sau: Ông treo một nải chuối lên trên cao, và không quên để sẵn nhiều dụng cụ cho loài khỉ này có thể sử dụng để với tới nải chuối mà nó rất ưa thích. Ông nhận xét: Con khỉ lần lượt thử lấy chuối bằng dụng cụ này rồi dụng cụ khác. Sau cùng nó cũng biết cắm hai khúc tre vào nhau cho dài ra để khều được chuối. Cũng có lần nó biết chồng các hộp vuông lên nhau, trèo lên để lấy chuối xuống ăn.
c) Về sự tài khéo: Nhiều con vật khi được tập luyện cũng có sự tài khéo tương tự như con người. Chẳng hạn: có những con khỉ biết đi xe đạp, biết nhào lộn, đá banh. Loài cá heo cũng có sự hiểu biết tương đương với một đứa trẻ 1-2 tuổi: nó biết gật đầu chào khách, biết tuân theo hiệu lệnh của huấn luyện viên để nhảy xuống nước hay ngoi lên bờ… Nếu hỏi các huấn luyện viên loài chó thì họ sẽ kể cho chúng ta nghe về vô số tài khéo đặc biệt của những con chó đã được huấn luyện.
Tuy nhiên, tất cả những sự tương tự nói trên vẫn không đủ đễ kết luận con người hoàn toàn chỉ là con vật như bao loài vật khác, vì con người còn có những yếu tố siêu việt mà lòai vật không bao giờ có được. Ngay trong những điều tưởng chừng giống nhau, cũng vẫn có khác biệt về trình độ cao thấp giữa con người với con vật.
2) CON NGƯỜI KHÁC CON VẬT.
a) Khác biệt về trình độ cao thấp:
– Cơ thể con người tuy rất giống với loài khỉ, nhưng nếu quan sát kỹ ta vẫn thấy có khác biệt: Thân xác con người đẹp đẽ, tinh vi… khác hẳn tình trạng xấu xí, thô kệch của lòai vượn.
– Con vật có sự hiểu biết, nhưng cái biết ấy là do bản năng thiên nhiên phú bẩm chứ không học hỏi để mỗi ngày tiến bộ thêm như sự hiểu biết của con người.
+ Sự hiểu biết ấy thiếu thích nghi và có tính cách máy móc: Tò vò trước khi đẻ trứng sẽ bắt một con sâu, chích một phát cho sâu bị tê liệt, rồi bỏ sâu vào một lỗ trong tổ. Sau đó, tò vò leo lên miệng lỗ, đẻ vào lỗ một cái trứng, rối vít cửa lỗ lại, để khi tò vò con nở ra sẽ có sẵn đồ ăn tươi ngon. Nhưng nếu bạn lấy con sâu và cái trứng mà tò vò mẹ vừa đẻ ngay trước mặt nó, tò vò mẹ vẫn vít cửa lỗ lại như không có gì xảy ra. Làm như vậy có khác gì một cỗ máy vô tri vô giác.
+ Sự hiểu biết ấy vẫn luôn có sẵn trong con vật và không đổi mới: khi quan sát, so sánh các tổ chim, các nhà sinh vật học cho biết: mỗi loài chim có một loại tổ riêng, và trong mỗi loại, mọi con chim đều có cách dựng tổ giống y như nhau, dù con chim ấy được nuôi riêng biệt tách khỏi đàn, không trông thấy các con chim khác làm tổ bao giờ. Loài chim sẻ xưa kia làm tổ thế nào thì con cháu của chúng sau này cũng làm tổ y như vậy, nhưng không có bất cứ thay đổi nào. Như vậy, sự hiểu biết ấy của con vật là do bản năng thiên phú, khác hẳn với sự hiểu biết của con người luôn có sự tiến bộ do học hỏi và không ngừng thay đổi thích nghi với hoàn cảnh chung quanh.
– Con vật có tài khéo, nhưng sự tài khéo ấy chúng không thể tự tập luyện, mà phải do con người khổ công tập luyện cho. Chẳng hạn: Con khỉ sở dĩ biết chơi bài là vì người ta đã dùng miếng ăn để huấn luyện thành thói quen cho nó bằng cách dính thịt bít-tết vào các quân bài, khi muốn ăn bít-tết, con khỉ phải lật bài lên. Cứ làm đi làm lại mãi sẽ thành thói quen. Rồi đến một ngày kia dù không có bít tết, con khỉ vẫn có khả năng lật bài theo ý của huấn luyện viên.
b) Khác biệt về trí khôn, lòng muốn và trực giác:
– Con người có trí khôn, nghĩa là có tư tưởng tổng quát trừu tượng, có óc sáng tạo và tiến bộ, đang khi con vật không bao giờ có những điều này: Một vị bác sĩ đã làm thí nghiệm để chứng minh trí khôn con người có những đặc tính khác hẳn với cái biết sơ thiểu nơi con vật. Ông cho một con khỉ lớn khôn và đứa con nhỏ hai tuổi của ông chơi chung một số hộp bánh kẹo được đậy nắp kín. Lúc đầu khỉ thành công hơn đứa con ông: nó cầm hộp lắc, cạy lung tung và lâu lâu lại may mắn mở được một hộp bánh, và lại tiếp tục cạy lắc với những hộp bánh còn lại. Còn đứa con ông tuy lúc đầu chậm hơn, nhưng khi đã mở được một hộp nào rồi, thì những hộp khác có hình dạng tương tự, nó đều mau chóng mở được. Sở dĩ đứa trẻ mở được mau lẹ là do có ý niệm tổng quát trừu tượng, biết nhận ra những điểm giống nhau giữa các hộp bánh kẹo.
Ngoài ý niệm tổng quát trừu tượng nói trên, con người còn biết chế biến các dụng cụ làm tăng khả năng và sức lực của mình lên gấp bội, đang khi con vật chỉ biết sử dụng thân thể làm khí cụ chuyên biệt mà thôi: Con cá dùng vây làm mái chèo và bánh lái để bơi, chim thì dùng cánh giang rộng để lướt bay trên không trung, con voi dùng ngà và vòi làm khí giới tự vệ… Duy chỉ có con người là có khả năng sáng tạo để làm được những việc vượt quá khả năng tự nhiên giới hạn của mình: Tuy không thể sống dưới nước như loài cá nhưng con người đã sáng chế ra tàu ngầm để lặn sâu và ở dưới đáy biển lâu hơn mọi lòai cá biển; Con người tuy không có cánh để bay nhưng đã chế tạo ra máy bay có khả năng bay tít tận trời cao với tốc độ nhanh gấp mấy lần âm thanh mà không lòai chim nào sánh bằng; Con người chỉ là một loài yếu đuối nhỏ bé hơn nhiều động vật khác, nhưng đã biết sử dụng trí khôn làm ra khí giới tối tân để tự vệ cách hữu hiệu, gấp trăm ngàn lần những lòai vật mạnh mẽ nhât…
Cũng chính vì có trí khôn trỗi vượt khác hẳn con vật, mà loài người đã tiến bộ và tiến thật nhanh. Ngày xưa đã có thời kỳ con người rất gần con vật: họ phải vừa lo kiếm ăn, lại vừa lo chống lại kẻ thù và truyền sinh nòi giống… Nhưng chính vì có trí khôn, nên chỉ duy con người có sự tiến bộ vượt mức về mọi phương diện (văn hóa tinh thần, khoa học kỹ thuật…) như hiện nay. Trái lại con vật do chỉ có bản năng thiên phú nên không tiến bộ và cũng không thể truyền lại cho con cháu những gì đã đắc thù nhờ sự tập luyện giống như con người. Tổ tiên con khỉ ngày xưa đã sống hoang dã thế nào thì con cháu của chúng ngày nay cũng sống y như vậy, chứ không tiến bộ như con người.
– Ngoài phần trí khôn nói trên, con người còn khác hẳn con vật vì có ý chí tự do: Con người biết lựa chọn điều tốt và lọai bỏ điều xấu, miễn là có lợi cho bản thân. Còn con vật hoạt động phần lớn do bản năng chứ không có tự do lựa chọn và tự chủ như con người. Chẳng hạn: Một con chó khi đứng trước miếng thịt thơm ngon sẽ không thể tự kiềm chế được sự ham ăn. Nó chỉ không dám ăn là do bản năng tự vệ, sợ bị chủ đánh đòn. Bao lâu sự sợ mạnh hơn cái đói thì nó còn chịu đứng nhìn chảy nước dãi. Nhưng nếu cái đói lấn át sự sợ hãi, nó sẽ nhào đại vào ăn miếng thịt bất chấp roi đòn của chủ. Đang khi trong hòan cảnh đó, nhiều người có lòng tự trọng và ý chí mạnh sẽ thà chịu chết đói hơn là chịu khuất phục vì miếng ăn, như những nhà đấu tranh cho công lý đã từng thực hiện.
– Cuối cùng, trong lãnh vực tinh thần, con người còn trổi vượt lòai vật vì có tư tưởng và ý thức về chính mình: con người có khả năng nhận biết ngoại giới nhờ giác quan giống như con vật, nhưng con người còn có khả năng nhận biết những thực tại siêu thực nghiệm dù mắt không thấy, tay không sờ, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm…vượt hẳn con vật. Đó là khả năng tư duy, suy luận và trực giác…Chẳng hạn: lòai người chúng ta có thể tin vào những điều mà người khác đã nhìn thấy nói ra … nếu điều ấy hữu lý, đáng tin vì có bằng chứng xác đáng. Hoặc khi trông thấy khói, chúng ta suy luận đã phải có lửa dù mắt ta không nhìn thấy lửa cháy; khi trông thấy một quả sòai, ta biết đã phải có cây sòai… dù mắt ta không thấy cây sòai. Về trực giác cũng vậy: trực giác là một cảm nghiệm trực tiếp, không qua trung gian của giác quan. Người phụ nữ chỉ cần thấy mặt một người là có thể “trực giác” biết đó là hạng người nào, tốt xấu ra sao và có đáng tín hay không. Trực giác đó được gọi là giác quan thứ sáu, điều mà con vật không bao giờ có.
Như vậy, có thể nói: con người tuy giống con vật về thân xác vật chất, nhưng lại khác biệt về trí khôn, ý chí tự do và suy tư trực giác. Những hoạt động tinh thần ấy chứng tỏ con người ngoài phần thể xác vật chất còn có phần linh thiêng hơn hẳn loài vật gọi là LINH HỒN.
3. TƯ TƯỞNG KHÔNG LÀ SẢN PHẨM CỦA ÓC NÃO VẬT CHẤT, NHƯNG LÀ MỘT HOẠT ĐỘNG CỦA LINH HỒN:
1) Một số người đã nêu ra nhận xét về ảnh hưởng giữa thể xác và linh hồn: thay đổi bộ óc tức cũng thay đổi con người, cắt đi một hai lá óc, con người có thể không còn cảm giác đau, có thể bị câm không nói được, không đọc được hiểu được, có thể quên quá khứ… Tâm tính con người cũng tùy thuộc vào hệ thống tuyến giáp và thần kinh hệ. Do bao tử bị đau có thể làm cho người ta ra khó tính; Gan yếu có thể phát sinh sự cau có khó chịu; Một người nát rượu say sỉn có thể trở thành đần độn, không nhớ được mình là ai ? Mình đã nói hay đã làm gì trong lúc say… Từ những nhận xét ấy, có người đã kết luận: không có linh hồn nào trong con người, tư tưởng siêu hình cũng chỉ là sản phẩm của óc não, là một hình thức của vật chất do óc não bài tiết ra, giống như mật do gan tiết ra vậy.
2) Thực ra, những nhận xét nói trên không đủ bằng chứng kết luận: óc não vật chất sản sinh ra tư tưởng được. Đồng ý là thân xác có ảnh hưởng đến tâm hồn, nhưng cũng đừng quên: tâm hồn cũng ảnh hưởng đến thân xác nữa. Chẳng hạn: khi một người nóng giận, mặt họ có thể đỏ ửng lên; Khi sợ hãi thì mặt mũi tái mét; Khi quá xúc động trái tim sẽ đập nhanh và té xỉu, thần trí có thể rơi vào hôn mê bất tỉnh. Chỉ nghĩ đến me chua cũng có thể làm cho nước miếng trong miệng ta chảy ra…
3) Tuy bộ óc con người có ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng, nhưng điều đó chỉ minh chứng rằng: óc não là điều kiện để con người hiểu biết và ước muốn. Không thể dựa vào lý do óc não ảnh hưởng đến tư tưởng, để kết luận tư tưởng là sản phẩm của óc não được vì những lý do như sau:
– Nếu óc não sinh ra tư tưởng thì bộ óc to, dĩ nhiên tư tưởng phải nhiều. Vậy tại sao nhiều người có đầu óc thật to mà lại dốt nát ngu muội? Óc bò cũng được cấu tạo bằng những tế bào giống như óc người, thế mà người ta vẫn thường nói: “Ngu như bò !”.
– Nếu óc sinh ra tư tưởng thì óc phải giống như một thư viện chứa đựng tư tưởng. Mỗi tư tưởng sẽ chiếm một chỗ riêng: hỏng chỗ nào thì những tư tưởng nơi đó sẽ bị mất đi. Thế nhưng trong thực tế: những người bị hư màng óc tuy có quên các điều đã biết trong một thời gian nào đó. Rồi sau khi bộ óc đã được chữa trị bồi bổ, khi những tế bào mới đã mọc ra thay thế cho những tế bào cũ bị hư hại thì họ lại có thể nhớ được những gì đã quên khi bị bệnh trước đó. Như vây, chứng tỏ rằng: óc không phải là “nguyên nhân sản xuất” mà chỉ là “phương tiện sản xuất” ra tư tưởng, qua “dụng cụ trung gian” là óc não. Chúng ta có thể ví linh hồn con người giống như một người đánh máy chữ. Người này muốn sản xuất ra tư tưởng là các hàng chữ trên mặt giấy, cần phải sử dụng dụng cụ trung gian óc não như chiếc máy đánh chữ. Cũng như khi máy chữ bị hư hỏng làm cho người đánh máy không thể đánh ra các hàng chữ thế nào, thì khi bộ óc con người bị hư hại, linh hồn cũng không thể sản xuất ra tư tưởng thế ấy. Rồi sau khi máy đã sửa xong, khi bộ óc đã được chữa lành, người đánh máy lại có thể sản xuất ra các hàng chữ, người bệnh lại có thể nhớ lại được những gì đã quên khi bị bệnh trước đó.
– Đàng khác, nói rằng: óc não sinh ra tư tưởng là điều vô lý, vì theo nguyên tắc triết hoc: “ Không ai cho kẻ khác điều mình không có”, và trong thực tế: loài nào chỉ sinh ra sản phẩm mang những đặc tính của loài đó. Chẳng hạn: Cây mít vật chất chỉ có thể sinh ra quả mít cũng là vật chất. Gan trong bụng là vật chất cũng chỉ sinh ra mật là vật chất…Thế thì óc não vật chất làm sao có thể sinh ra tư tưởng siêu vật chất, với phẩm chất vượt không gian, thời gian mà vật chất không bao giờ có được? Vậy tư tưởng do đâu mà phát sinh nếu không bắt nguồn từ một nguyên nhân linh thiêng mà chỉ duy loài người mới có. Nguyên nhân ấy là LINH HỒN.
KẾT LUẬN:
Tất cả những lý lẽ viện ra để phủ nhận linh hồn đều không đứng vững trên bình diện triết lý cũng như khoa học. Ta phải cùng với mọi người có lương tri ngay thẳng mà quả quyết rằng: CON NGƯỜI KHÁC HẲN CON VẬT VÌ CÓ LINH HỒN THIÊNG LIÊNG SIÊU VIỆT, LINH HỒN ẤY CHÍNH LÀ NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH TƯ TƯỞNG VÀ MỌI HOẠT ĐỘNG SIÊU VIỆT, THÔNG QUA TRUNG GIAN LÀ ÓC NÃO. Pascal đã viết: “Tất cả mọi thể xác, bầu trời và các vì tinh tú, trái đất và các quốc gia trên trái đất… cũng không có giá trị bằng một tinh thần nhỏ mọn nhất. Vì tinh thần ấy biết những vật kia và biết cả chính mình, còn thể xác và các vật kia không hiểu biết gì cả. Từ hết mọi thể xác gom lại cũng không thể làm phát sinh được một tư tưởng nhỏ mọn, vì tư tưởng ở một cấp bậc khác hẳn, cấp bậc thiêng liêng tinh thần”.
B. PHÚT HỒI TÂM:
1) LỜI CHÚA: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7).
2) LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin thổi Thần Khí của Chúa xuống trên chúng con, để chúng con luôn ý thức lòai người không những là thân xác vật chất có sinh có diệt, mà còn là hồn thiêng bất tử do Thiên Chúa phú ban và sẽ tồn tại vĩnh hằng. Xin cho chúng con luôn sống tình hiếu thảo với Chúa Cha bằng lời cảm tạ tri ân và nhìn nhận mọi người là anh chị em, là con cùng một Cha Chung trên trời. Nhờ đó chúng con hy vọng sau khi chết linh hồn chúng con sẽ được về trời với Chúa hưởng hạnh phúc muôn đời. – AMEN.
Nguồn:
LM ĐAN VINH
Giám Huấn HHTM Trung Ương