Mẹ Maria – Đấng Đồng Công cứu độ
Chân phước Mẹ Teresa Calcutta giải thích rõ: “Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ với Chúa Giêsu. Mẹ đã cho Chúa Giêsu thân thể và chịu đau khổ với Con dưới chân Thánh giá”. Vì thế, tôn danh Đấng Đồng Công Cứu Độ không nâng Mẹ lên ngang hàng với Chúa Giêsu nhưng đề cập sự cộng tác thứ cấp trong công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.
Đấng Đồng Công Cứu Độ trong Giáo hội sơ khai
Điều mà nhiều người không nhận ra là qua lịch sử Giáo hội, vai trò của Đức Mẹ là “Đấng Đồng Công Cứu Độ” với Đức Kitô đã được dạy bởi nhiều vị thánh, tiến sĩ giáo hội, thần học gia, giáo hoàng và giám mục,… ngay từ đầu thế kỷ II. Giáo lý về Đức Mẹ là người cộng tác trong sứ vụ cứu độ của Đức Kitô là điều không mới lạ. Phong trào hiện nay do Miravalle khởi xướng chỉ là đỉnh cao, là bước cuối trong cuộc chạy đua về đích đã khởi động từ thế kỷ II.
Thánh tử đạo Justinô (khoảng năm 165) là người đầu tiên nói về vai trò trung gian của Đức Mẹ trong việc cứu độ. Ngài nói rằng qua một người phụ nữ (Eva) mà cả nhân loại sa ngã, nhưng cũng qua một người phụ nữ (Đức Maria) mà nhân loại được phục hồi trong ân sủng: “Chúng ta biết rằng, trước cả mọi thụ tạo, Chúa Con nhiệm xuất từ Chúa Cha bằng quyền năng và ý muốn, và qua một Trinh Nữ mà Chúa Con hóa thành nhục thể, để sự bất tuân khởi đầu từ con rắn có thể được khôi phục”.
Đầu thế kỷ III, Thánh lrênê (khoảng năm 202), giám mục GP Lyons, nói về vai trò của Đức Mẹ trong việc cứu độ: “…Đức Mẹ tuân phục và trở thành nguồn ơn cứu độ cho chính Mẹ và cho cả nhân loại…”.
Thế kỷ IV, Thánh Epiphaniô, giám mục GP Salamis (403), có cách giải thích khác về vai trò cứu độ của Đức Mẹ: “Từ khi bà Eva đã đem sự chết đến với nhân loại, sự chết đã đi vào thế giới, còn Đức Mẹ đã đem đến sự sống, nhờ Đức Mẹ mà sự sống được sản sinh cho chúng ta”.
Thánh Ambrôsiô, tiến sĩ giáo hội và là cha linh hướng của Thánh Augustinô, dạy rằng Mẹ của Đức Kitô “đã đem ơn cứu độ đến cho nhân loại”: “Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Thiên Chúa đến cứu thế gian, bắt đầu công cuộc của Ngài nơi Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà ơn cứu độ khởi đầu, và Đức Mẹ là người đầu tiên tiếp nhận Chúa Con”.
Thánh Augustinô được ĐGH Gioan Phaolô II xác định là người đầu tiên nói Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ. Thánh nhân viết: “Một phụ nữ đã trao chất độc và lừa dối loài người. Một phụ nữ đã trao ơn cứu độ để loài người được phục hồi. Bằng việc sinh Chúa Giêsu, một phụ nữ đã chuộc tội của loài người mà họ bị một phụ nữ lừa dối”. Nhiều vị thánh khác cũng tôn xưng Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ, trong số đó có Thánh lrênê, Thánh Giêrômiô (420), Thánh Phêrô Chrysôlôgô (450), và Thánh Gioan Chrysostom.
Đấng Đồng Công Cứu Độ khi chuyển giao thiên niên kỷ
Thánh Gioan Damascene (khoảng năm 675-749), tiến sĩ giáo hội và là một trong các giáo phụ vĩ đại Hy Lạp, dạy rằng “chính nhờ Đức Mẹ mà chúng ta được cứu độ khỏi lời nguyền rủa” và “nhờ Đức Mẹ mà cả nhân loại được phục hồi”.
Tuy nhiên, đó là một tu sĩ Dòng Byzantine hồi cuối thế kỷ X tên là Gioan Geometer, ngài đã có bước đột phá về thần học khi khai sáng về tính bất khả ly (inseparability) của Đức Mẹ và Chúa Con trong việc hoàn tất công cuộc cứu độ trên đồi Can-vê. Ngài viết trong cuốn “The Life of Mary” (Cuộc Đời Đức Mẹ): “Sau khi sinh Chúa Con, Đức Mẹ không bao giờ rời xa Ngài trong mọi hoạt động và ý muốn của Ngài… Khi Con đau khổ, Đức Mẹ không chỉ hiện diện bên Con mọi nơi mà còn nhận biết sự hiện diện của Con, thậm chí Mẹ còn chịu đau khổ với Con…”.
Chủ đề “bất khả ly giữa Mẹ và Con” trong công cuộc cứu độ sẽ còn được lặp đi lặp lại trong các thế kỷ tiếp theo, nhất là trong các mặc khải cho Thánh Bridget (thế kỷ IV) đã được Giáo hội phê chuẩn.
Thánh hồng y Phêrô Damian (1072), tiến sĩ giáo hội, đã kêu gọi Giáo hội cảm tạ Đức Mẹ, sau Thiên Chúa, về ơn cứu độ: “…Chúng ta hoài nghi Thánh Mẫu Thiên Chúa, và… sau Thiên Chúa, chúng ta nên cảm tạ Đức Mẹ về ơn cứu độ”. Thánh Anselmô (1109), một trong các thần học gia và triết gia lỗi lạc của thời Trung Cổ, đã kêu lên: “Qua Mẹ, chúng con được đến gần Chúa Con, Đấng Cứu Độ thế gian qua Mẹ”.
Thánh Bênađô Clairvaux (1153), arguably the most significant figure of the twelfth century, frequently referred to Mary as “khởi điểm của ơn cứu độ”. Ngài viết: “Ôi Mẹ hồng phúc, Mẹ đã trao ban Con để hòa giải chúng con, làm chúng con thánh thiện và làm vui lòng Chúa. Với niềm vui, Chúa Cha sẽ chấp nhận sự dâng hiến này, lễ hiến tế có giá trị vô hạn”.
Arnold thành Chartres (1160), luật của Thánh Bênađô, lần đều tiên nói rằng Đức Maria cùng chịu đóng đinh (co-crucified) với Con trên đồi Can-vê và cùng chết (co-dies) với Con: “Điều họ đã làm trong thân xác của Đức Kitô với các cây đinh và lưỡi đòng, đó là sự đồng cam cộng khổ trong tâm hồn Mẹ. Mẹ cùng chết bằng nỗi đau khổ của một người mẹ”.
Mặc khải thần bí của thế kỷ 14
Giáo lý về Đức Mẹ Đồng Công có nền tảng sâu xa hơn hồi thế kỷ XIV, qua sự cộng tác thần bí của Thánh Bridget của Thụy Điển (1373), và Thánh tiến sĩ Catarina Sienna (1380). Trong các lần mặc khải đó, đã ghi lại các thị kiến và những lời tiên tri được Chúa Giêsu và Đức Mẹ trao cho Thánh Bridget, không chỉ được Đức giáo hoàng và Giáo hội chấp thuận, mà còn được nhiều giáo hoàng, giám mục và các thần học gia đề cao. Trong các lần mặc khải, Chúa Giêsu nói rõ: “Mẹ Tôi và Tôi đã cứu độ nhân loại bằng một trái tim duy nhất, Tôi chịu đau khổ trong tâm hồn và thể xác, Mẹ chịu buồn sầu và yêu thương bằng trái tim Mẹ”. Để xác định, Đức Mẹ nói: “Con Mẹ và Mẹ đã cứu thế giới bằng một trái tim.
Thánh Catarina Siena, nhà thần bí của các nhà thần bí, vị tiến sĩ vĩ đại của Giáo hội và đồng bảo trợ Âu châu, đã gọi Đức Mẹ là “Đấng Cứu Độ của nhân loại”: “Lạy Mẹ Maria, Đấng Cứu Độ của nhân loại, vì nhờ trao xác thịt cho Ngôi Lời, Mẹ đã cứu độ thế gian. Đức Kitô cứu độ bằng cuộc khổ nạn, còn Mẹ cứu độ bằng nỗi đau tâm hồn và thể lý”.
Đức Mẹ Đồng công và Chân phước Gioan Phaolô II
Trong số các giáo hoàng của thế kỷ XX, chỉ có ĐGH Gioan Phaolô II thường xuyên dạy rằng Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ. Ngài đề cập Đức Mẹ là Đấng Đồng Công ít nhất 6 lần trong triều đại giáo hoàng của ngài, qua nhiều dãng giáo huấn, cùng cấu thành giáo quyền – các bài giảng, tông thư, huấn thị.
Mặc dù Công đồng Vatican II không minh nhiên nói về Đức Mẹ Đồng Công, Chân phước Gioan Phaolô II vẫn nói rằng Công đồng vẫn dạy sự thật về Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ. Trong buổi tiếp kiến chung ngày 2-4-1997, ngài nói về 70 giáo lý về Đức Mẹ trong hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), trong đó có giáo huấn của Công đồng về Đức Mẹ Đồng công:
“…Đức Mẹ chịu đựng cùng Con Yêu Dấu trong nỗi đau cực độ của Con, lòng Mẹ cũng chia sẻ sự hy sinh của Con, và bằng lòng hiến tế chính Con Yêu Dấu của Mẹ. Với những từ ngữ này, Công đồng nhắc chúng ta về “lòng trắc ẩn của Đức Mẹ”; lòng Mẹ phản ánh mọi nỗi đau thân xác và tâm hồn, nhắn mạnh sự sẵn sàng chia sẻ sự hy sinh cứu độ của Con và kết hiệp nỗi đau lòng Mẹ với việc hiến tế của Con. …Hiến chế Lumen Gentium liên kết Đức Mẹ với Đức Kitô, Đầng giữ vai trò chính trong ơn cứu độ, làm rõ việc Mẹ tự kết hợp với sự hy sinh của Con, còn Mẹ vẫn phụ thuộc Con Thiên Chúa”.
Đức Mẹ có đồng công cứu độ?
Các vị đại thánh, các giáo phụ, các thần học gia và vài giáo hoàng, đã đề cập điều đó. “Đức Mẹ Đồng Công” là lời thúc giục vang dội suốt hằng trăm năm qua trong lịch sử giáo hội, ngay từ thế kỷ II, đã và đang kiến nghị vị đại diện Thiên Chúa là Đức giáo hoàng. Khi chúng ta tiếp tục đọc câu chuyện về Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ, Đấng Trung Gian và Trạng Sư, chúng ta hãy nhớ lời của ĐHY Edouard Gagnon, P.S.S., chủ tịch danh dự Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình và Ủy ban Giáo hoàng về các Hội nghị Thánh Thể Quốc tế: “Làm sao thánh danh Đức Mẹ Đồng Công được dùng để tôn vinh Đức Mẹ khi đã được sử dụng bởi các Đức giáo hoàng, các thánh, các chân phước, các nhà thần bí, các tiến sĩ giáo hội, và các thần học gia xuyên suốt lịch sử giáo hội, kể cả ĐGH Gioan Phaolô II…?”.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ All-About-The-Virgin-Mary.com)